Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào

Bộ luật Hồng Đức ra đời dưới thời vua Lê Thánh Tông với niên hiệu là Hồng Đức (đây cũng là lý do bộ luật này được gọi là Bộ luật Hồng Đức), ngoài ra Bộ luật này còn có tên gọi khác là Quốc triều hình luật. Cùng chongiadung.net tìm hiểu chi tiết Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào ? trong bài viết dưới đây.

Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào

Nội dung bài viết:

Tìm hiểu về Bộ luật Hồng Đức

Quốc triều hình luật là gì?

  • Luật Hồng Đức là tên gọi chung của Bộ Quốc triều Hình luật hay Lê triều hình luật. Bộ luật Hồng Đức là Bộ luật ra đời dưới thời vua Lê Thánh Tông với niên hiệu là Hồng Đức (1470-1497), là bộ luật chính thức của nhà nước Đại Việt đầu thời Lê, hiện còn lưu giữ đầy đủ. Có thể coi đây là một bộ luật tổng hợp bao gồm nhiều quy phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như: Luật hình sự, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân gia đình, luật hành chính, …
  • Bộ luật Hồng Đức là một thành tựu rất quan trọng trong lịch sử lập pháp của Việt Nam so với các triều đại trước cũng như nhiều nước trên thế giới lúc bấy giờ. Bộ luật Hồng Đức được tìm thấy trên hai tấm bia khắc và một bản chép tay với đề mục Lê triều hình sự. Các tài liệu tìm được này không có thông tin về tên tác giả, niên đại, không có lời tựa, … Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu lịch sử, một số nhà nghiên cứu cho rằng Bộ luật này được biên soạn và ban hành từ thời vua Lê Thái Tổ (1428).
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào

>>Đọc thêm: Tìm hiểu Quang Trung Nguyên Huệ là gì của nhau<<

Lịch sử hình thành và phát triển của Bộ luật Hồng Đức

  • Văn bản bộ mã này là một trong những thư tịch cổ nhất hiện còn lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội). Ở đây có in hai tấm bảng, đều có tên Quốc triều hình luật. Ngoài ra còn có một bộ sách chép tay tên là hình luật triều Lê, nhưng nội dung của nó là bản Quốc triều Thuật ngữ (thời Hậu Lê) và chép vào thời sau.
  • Trong đó bản Quốc triều hình luật mang ký hiệu A.341 là bản khắc đầy đủ nhất và được coi là văn bản có giá trị nhất. Bộ sách này gồm 6 cuốn, được in và khắc trên giấy, tổng cộng 129 tờ đóng thành một cuốn. Cuốn sách không có tên tác giả, không có ghi ngày soạn thảo hoặc in, và không có lời nói đầu hoặc chú thích khác. Bìa gốc của cuốn sách bị mất, được thay bằng bìa có bốn chữ Hán, Quốc triều hình luật, bằng bút lông. Nội dung bộ luật này đã được Phan Huy Chú ghi lại trong phần Hình luật của bộ Lịch triều hiến chương loại chí, nhưng thiếu 143 điều trong tổng số 722 điều trong sách này.
  • Trong số 722 điều của Bộ luật Hình sự Quốc gia, 200 điều được chuyển thể từ thời Đường và 17 điều được chuyển thể từ thời Minh. Ngoài ra, có 178 bài báo cùng chủ đề nhưng Tòa án Hình sự Quốc gia đưa ra cách giải quyết khác với các triều đại Trung Quốc. Đáng chú ý nhất, có 328 điều khoản không tương ứng với bất kỳ luật nào của Trung Quốc.
  • Từ đầu thế kỷ 20, Tòa án Quốc gia về Luật Hình sự đã được dịch sang tiếng Pháp. Mãi đến năm 1956, nó mới được dịch ra quốc ngữ lần đầu tiên (bản dịch của Đại học Luật khoa Sài Gòn do Lương Thân Cao Nại Quang phiên âm và dịch, Nguyễn Sĩ Giác hiệu đính, Vũ Văn Mẫu biên soạn. , do nhà in Nguyễn Văn Của xuất bản, Sài Gòn, 1956). Gần đây, Viện Sử học Việt Nam đã dịch lại cho chính xác hơn. (NXB Pháp lý, Hà Nội – 1991).
  • Một số học giả Pháp khi xem xét, nghiên cứu cho rằng, đó gọi là hình luật triều Lê và đó là bộ luật triều Lê in năm 1777 (Cảnh Hưng thứ 38) mà Phan Huy Chú đã ghi vào Lịch triều hiến chương loại chí. loại chương sau khi họ nghiên cứu lời sám hối trong cuốn sách này của ông cũng như bản thảo của Tòa án Quốc gia về Luật Hình sự. Theo Vũ Văn Mẫu, Quốc triều hình luật được ban hành lần đầu tiên vào khoảng thời Hồng Đức (1470-1497) và có thể là vào cuối thời đại này. Ý kiến ​​của Vũ Văn Mẫu chủ yếu dựa trên ý kiến ​​của Phan Huy Chú về việc ban hành Bộ luật thời Lê, Hồng Đức và lời tựa của Vua Gia Long nhà Nguyễn về bộ Hoàng Việt Luật lệ, trong đó ông đánh giá cao bộ luật cổ này. và gọi nó là bộ luật Hồng Đức.
  • Theo Viện Sử học Việt Nam, bộ luật hình sự Quốc Triều được soạn thảo từ thời Lê Thái Tổ, sau đó tiếp tục được bổ sung dưới các triều đại Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông. Đến thời Lê Thánh Tông, bộ luật được hoàn thiện. Những ý kiến ​​này chủ yếu dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư có ghi rằng vào năm Thái Hòa thứ 7 (1449), vua Lê Nhân Tông đã bổ sung 14 điều vào bộ luật hình sự chương điền sản. Ngoài ra, qua các bộ sử khác và qua các bia ký (có sự khác nhau về nội dung các văn bản), có thể thấy được những bổ sung và tên gọi của các đơn vị hành chính được ghi trong bộ mã, v.v. Bộ luật này đã được soạn thảo, bổ sung và sửa đổi qua nhiều đời vua Lê.
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào

Bố cục của Luật Hồng Đức

Quốc triều hình luật trong cuốn sách A.341 có 13 chương, ghi chép trong 6 quyển (5 quyển có 2 chương/quyển và 1 quyển có 3 chương), gồm 722 điều. Ngoài ra, trước khi đi vào các chương và điều thì Quốc triều hình luật còn có các đồ biểu quy định về các hạng để tang và tang phục, kích thước và các hình cụ (roi, trượng, gông, dây sắt v.v). Bố trí cụ thể như sau:

  • Chương Danh lệ: 49 điều quy định về những vấn đề cơ bản có tính chất chi phối nội dung các chương điều khác (quy định về thập ác, ngũ hình, bát nghị, chuộc tội bằng tiền v.v)
  • Chương Vệ cấm: 47 điều quy định về việc bảo vệ cung cấm, kinh thành và các tội về cấm vệ.
  • Chương Vi chế: 144 điều quy định về hình phạt cho các hành vi sai trái của quan lại, các tội về chức vụ.
  • Chương Quân chính: 43 điều quy định về sự trừng phạt các hành vi sai trái của tướng, sĩ, các tội quân sự.
  • Chương Hộ hôn: 58 điều quy định về hộ tịch, hộ khẩu, hôn nhân-gia đình và các tội phạm trong các lĩnh vực này.
  • Chương Điền sản: 59 điều, trong đó 32 điều ban đầu và 27 điều bổ sung sau (14 điều về điền sản mới tăng thêm, 4 điều về luật hương hỏa, 9 điều về châm chước bổ sung luật hương hỏa) quy định về ruộng đất, thừa kế, hương hỏa và các tội phạm trong lĩnh vực này.
  • Chương Thông gian: 10 điều quy định về các tội phạm tình dục.
  • Chương Đạo tặc: 54 điều quy định về các tội trộm cướp, giết người và một số tội chính trị như phản nước hại vua.
  • Chương Đấu tụng: 50 điều quy định về các nhóm tội đánh nhau (ẩu đả) và các tội vu cáo, lăng mạ v.v
  • Chương Trá ngụy: 38 điều quy định các tội giả mạo, lừa dối.
  • Chương Tạp luật: 92 điều quy định về các tội không thuộc các nhóm tội danh trên đây.
  • Chương Bộ vong: 13 điều quy định về việc bắt tội phạm chạy trốn và các tội thuộc lĩnh vực này.
  • Chương Đoán ngục: 65 điều quy định về việc xử án, giam giữ can phạm và các tội phạm trong lĩnh vực này.

Hai chương cuối này đã có một số quy định về tố tụng, nhưng chưa hoàn chỉnh.

Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào

So sánh luật Hồng Đức với các luật khác

Cũng như các bộ luật phong kiến ​​khác, luật Hồng Đức thể hiện rõ bản chất giai cấp của nó. Mục tiêu cơ bản của nó là bảo vệ vương quyền, địa vị và lợi ích của giai cấp phong kiến, củng cố trật tự xã hội và chế độ gia đình phụ quyền phong kiến. Đó là sự pháp điển hóa tư tưởng chính trị và đạo đức của Nho giáo. Tuy nhiên, không thể phủ nhận những tính năng độc đáo và những tiến bộ của nó.

Luật Trung Hoa

  • Luật Hồng Đức tiếp thu nhiều thành tựu lập pháp của Trung Hoa, chịu ảnh hưởng của cả luật nhà Đường và luật nhà Minh. Tuy nhiên, nó có những nét tương đồng với pháp luật của nhà nước phong kiến ​​Trung Quốc cả về nội dung và bố cục.
  • Về bố cục, Đường luật có 500 bài chia thành 12 chương (Danh lệ, Vệ cấm, Chức chế, Hộ hôn, Khai khố, Thiện hưng, Đạo tặc, Đấu tụng, Trá ngụy, Tạp luật, Bộ vong, Đoán ngục) Trong 30 tập. Có thể thấy, trong luật Hồng Đức, các điều khoản về tội phạm mại dâm và vấn đề đất đai được quy định riêng biệt và cụ thể hơn.
  • Về nội dung, các quy định về hôn nhân – gia đình và bất động sản của Luật Hồng Đức được chú trọng hơn so với các quy định của Đường luật (quy định cụ thể về văn bản, di chúc, chế độ và phương thức thừa kế, phân chia tài sản, di sản của bà goá, v.v.) ). Vì vậy, sau này các tòa án thời Pháp thuộc hay Tòa án Tối cao Sài Gòn của Việt Nam Cộng hòa thường dựa vào các quy định này của luật Hồng Đức để phân xử các vụ kiện liên quan đến tài sản hôn nhân.
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào

Bộ luật nhà Nguyễn

  • So sánh với bộ Hoàng Việt Luật lệ (hay Bộ luật Gia Long) (1811) ra đời sau nhiều thế kỷ, có thể thấy bộ luật Hồng Đức không có tính khái quát cao và phân chia rõ ràng như bộ Hoàng Việt luật lệ. Tuy nhiên, mức độ bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong luật Hồng Đức cao hơn trong bộ luật Hoàng Việt. Như lời Giáo sư Vũ Văn Mẫu đã viết khi bình luận về Hoàng Việt luật lệ: “Bao nhiêu những sự tân kỳ mới lạ trong bộ luật triều Lê đã không còn lưu lại một chút dấu tích nào trong luật nhà Nguyễn. Không còn những điều khoản liên quan đến hương hỏa, đến chúc thư, đến các điều kiện về giá thú, đến chế độ tài sản của vợ chồng.”
  • Ngoài ra, Luật Hồng Đức cũng được coi là nhẹ hơn các triều trước và nhẹ hơn luật của triều Nguyễn sau này, kể cả việc phân biệt đối xử với những người phạm tội là trẻ nhỏ hoặc tàn tật.
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào

>>Đọc thêm: Phong trào cần vương nổ ra và phát triển như thế nào Lịch sử lớp 8<<

Các điểm tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức

  • Điểm tiến bộ thứ nhất của luật Hồng Đức là đã có những bước tiến khá triệt để trong việc nâng cao địa vị của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Vai trò của phụ nữ đã được nhấn mạnh hơn nhiều so với các luật hiện đại trong khu vực. Nó cho thấy người vợ có quyền quản lý tài sản của gia đình (khi người chồng chết) và họ có quyền thừa kế như nam giới.
  • Điểm thứ hai, là hình phạt cho phạm nhân nữ bao giờ cũng thấp hơn so với phạm nhân nam. Ví dụ: Điều 1 quy định trượng hình chỉ đàn ông phải chịu: “Từ 60 cho đến 100 trượng, chia làm 5 bậc: 60 trượng, 70 trượng, 80 trượng, 90 trượng, 100 trượng, tuỳ theo tội mà thêm bớt. Xử tội này có thể cùng với tội lưu, tội đồ, biếm chức, hoặc xử riêng chỉ đàn ông phải chịu.” Điều 680: “Đàn bà phải tội tử hình trở xuống nếu đang có thai, thì phải để sinh đẻ sau 100 ngày mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà đem hành hình thì ngục quan bị xử biếm hai tư; ngục quản bị đồ làm bản cục đinh. Dù đã sinh rồi, nhưng chưa đủ hạn một trăm ngày mà đem hành hình, thì ngục quan và ngục lại bị tội nhẹ hơn tội trên hai bậc. Nếu đã đủ 100 ngày mà không đem hành hình, thì ngục quan hay ngục lại bị tội biếm hay tội phạt”..
  • Điểm thứ ba, nó thể hiện chính sách trọng nông của triều Lê. Bộ luật trừng phạt rất nặng các tội như phá hoại đê điều (điều 596), chặt phá cây cối và lúa má của người khác (điều 601), tự tiện giết trâu ngựa (điều 580) v.v Luật quy định trách nhiệm của nhà nước thông qua trách nhiệm của các hệ thống quan lại nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu của người nghèo trong xã hội (Điều 294; Điều 9)
  • Điểm thứ tư, luật Hồng Đức có nhiều quy định thể hiện tính chất nhân đạo, thể hộ vệ dân thường. Ví dụ: Điều 17 Quốc Triều Hình Luật quy định: “Khi phạm tội chưa già cả tàn tật, đến khi gàn tật mới bị phát giác thì xử theo luật già cả tàn tật.Khi ở nơi bị đồ thì già cả tàn tật cũng thế. Khi còn bé nhỏ phạm tội thì xử theo luật lúc còn nhỏ”. Quốc Triều Hình Luật còn thể hiện chính sách khoan hồng đối với người phạm tội tuy chưa bị phát giác và tự thú trước (trừ phạm tội thập ác hoặc giết người). Điều 18 và điều 19: “Phàm ăn trộm tài vặt của người sau lại tự thú với người mất của thì cũng coi như là thú ởửa quan”. Các điều 21, 22, 23, 24 của Luật Hình sự Quốc triều quy định về việc chuộc tội bằng tiền (trừ hình phạt roi vì cho rằng đòn roi có tính chất răn dạy, răn đe nên không phải lấy tiền chuộc).
  • Điểm thứ năm, luật Hồng Đức vừa tiếp thu có chọn lọc tư tưởng của Nho giáo vừa phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Ví dụ: Điều 40: “Những người miền thượng du (miền núi, miền đồng bào dân tộc ít người cư trú) cùng phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Những người thượng du phạm tội với người trung châu (miền trung du và miền đồng bằng) thì theo luật mà định tội”.Có thể nói, đây là một trong những đạo luật thể hiện rõ nhất tính sáng tạo của nhà lập pháp. Điểm thú vị của quy định này là pháp luật dù hoàn thiện đến đâu cũng không thể phủ nhận hoặc thay thế hoàn toàn vai trò của phong tục, tập quán đã có từ lâu đời trước pháp luật.
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào

Một số câu hỏi và đáp án về Bộ luật Hồng Đức

Ngày nay nhà nước ta còn kế thừa những nội dung cơ bản nào của Bộ luật Hồng Đức

  • Bộ luật Hồng Đức (còn gọi là Quốc triều hình luật) được coi là bộ luật nổi bật nhất, có vai trò hết sức đặc biệt trong lịch sử lập pháp của chế độ phong kiến ​​Việt Nam. Cho đến nay mặc dù đã trải qua hơn 500 năm lịch sử. Tuy nhiên, các quy phạm pháp luật của Bộ luật Hồng Đức vẫn có giá trị pháp lý hiện hành của nước ta. Bộ luật có nhiều nội dung tiến bộ, nhân văn và có những điểm tiếp cận gần gũi với kỹ thuật lập pháp hiện đại. Đặc biệt là những quy định mang tính nhân văn, tiến bộ đối với phụ nữ. Những điều luật khác của thời kỳ phong kiến ​​thường không tập trung vào địa vị của người phụ nữ.
  • Đối với phụ nữ, quyền của phụ nữ được đề cập chủ yếu trong hai chương “Hôn nhân gia đình” và “Tài sản”. Cụ thể, lần đầu tiên trong lịch sử thời kỳ phong kiến, nhà nước quy định con gái có quyền thừa kế như con trai trong trường hợp con trai cả chết hoặc mất. Ngoài ra, pháp luật cũng xác định rõ nguồn tài sản của vợ chồng bao gồm: tài sản riêng của mỗi người và tài sản chung của cả vợ và chồng. Việc phân định này góp phần xác định việc phân chia tài sản thừa kế cho con cái khi cha mẹ đã mất hoặc việc phân chia tài sản cho bên còn sống nếu một trong hai vợ chồng chết trước. Có thể nói, đây là điểm mới, tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức mà cho đến ngày nay, tại Điều 28 và Điều 38 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã kế thừa về việc chia tài sản chung, vợ chồng. . .
  • Ngoài vấn đề tài sản, thừa kế, sự tiến bộ và nhân văn trong Bộ luật Hồng Đức còn thể hiện ở việc người vợ được bình đẳng trong hôn nhân, như quyền xin ly hôn trong một số trường hợp chẳng hạn. chẳng hạn như: “Chồng cách vợ 5 trận thắng thì vợ quy phục, quan xã làm chứng, thì chồng thua vợ. Hoặc nếu bạn đã có con, hãy gia hạn thêm 1 năm. Công chức đi công tác xa không áp dụng luật này. Nếu đã bỏ vợ mà trở về cản trở người khác lấy vợ cũ thì bị xử phạt ”theo quy định tại Điều 308 Bộ luật Hồng Đức. Chính điểm này đã cho thấy sự tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức trong việc đảm bảo quyền lợi của phụ nữ trong xã hội hiện nay.
  • Ngoài ra, tại Điều 167 – Hồng Đức Thiên Chính Thư có văn bản khẳng định một sự tiến bộ minh bạch của Bộ luật Hồng Đức. Ngoài sự đồng ý của cha mẹ hoặc người lớn tuổi thì sự đồng ý của hai bên cũng được pháp luật chú trọng và hiện nay điều này cũng đã được ghi nhận trong Luật hôn nhân và gia đình 2014.
  • Qua đó, có thể thấy những điểm tiến bộ trong bộ luật Hồng Đức là một bước khá cơ bản trong việc nâng cao địa vị của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, có thể coi trọng hàng đầu và phương thức lập pháp tiến bộ của cơ quan lập pháp. Nước ta để lại sự kế thừa cho Luật Hôn nhân và Gia đình hiện đại.
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào

Bộ Quốc triều hình luật được ban hành dưới thời nào

  • Kế tiếp là nhà Lê với 356 năm, trong đó thời Lê Sơ 100 năm (1428 – 1527) được xem là thời kỳ toàn thịnh với sự ra đời Quốc triều Hình luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức gắn liền với tên tuổi của vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497).
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào

Nội dung nào dưới đây không được thể hiện trong bộ luật Hồng Đức của nhà Lê sơ

  • A. Bảo vệ quyền hành của giai cấp thống trị.
  • B. Đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân.
  • C. Quan tâm bảo vệ sức kéo trong sản xuất nông nghiệp.
  • D. Bảo vệ an ninh đất nước.

Đàn áp: B. Đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân.

Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức
Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào

Quốc triều hình luật ra đời năm nào

  • Năm 1428, “Quốc triều hình luật” được ban hành với vai trò nổi bật của vị vua anh minh sáng suốt Lê Thánh Tông và xu hướng hưng thịnh của triều đại đang phát triển hưng thịnh, nhà Hậu Lê.

Trên đây là chia sẻ Bộ quốc triều hình luật hay luật hồng đức được biên soạn và ban hành dưới thời vua nào. Mong rằng bài viết mang lại chút thông tin hữu ích cho bạn.